Cây cà phê được tìm thấy như thế nào?
Có lẽ chúng ta là một trong những nước có sản lượng xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới. Nhưng chắc không có nhiều người biết rằng, cây cà phê không phải của riêng Việt Nam mà là được du nhập vào.
Trên thế giới có hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết về nguồn gốc của cà phê. Thực hay hư cũng chưa có ai phân định rõ. Nhưng nhất định tất cả câu chuyện đó là kết quả của sự bay bổng do hạt cà phê đậm đà mang lại. Có một câu chuyện mà được nhiều người truyền nhất là về một anh chàng chăn dê tên Kaldi người xứ Abyssinia với đàn dê của anh ta.
Chuyện kể rằng, đàn dê của anh đã ăn một loại quả cây lạ có màu đo đỏ. Rồi sau đó có những biểu hiện lạ thường. Kaldi phát hiện ra điều đó, anh liều ăn thử và thấy mình hưng phấn hẳn lên. Ngờ rằng mình đã gặp một phép lạ bèn báo ngay cho vị quản nhiệm ở một tu viện gần đó. Nhà tu kia sợ rằng đây chính là một thứ trái cấm của quỷ dữ nên lập tức vứt vào lò lửa. Thế nhưng khi những quả kia cháy xém tỏa ra một mùi thơm lừng. Đến lúc này người tu sĩ kia mới tin rằng đó là một món quà của Thượng Đế ban tặng. Ông vội kêu thêm những tăng lữ khác đến tiếp tay. Họ đem rang lên, giã nhỏ rồi pha vào nước uống để mọi người cùng hưởng thiên ân.
Lịch sử cây cà phê
Truyền thuyết làm cho câu chuyện thi vị hơn, được ghi nhớ lâu hơn. Còn đối với lịch sử chính thống, với những ghi chép được ghi lại đến ngày hôm nay. Theo số liệu ghi chép cây cà phê được tìm thấy đầu tiên tại Tỉnh Kaffa của Ethiopia. Tại đây đã có nhiều câu chuyện về cà phê được nhắc tới từ thế kỉ thứ 9 . Cho đến thế kỉ thứ 14 những người buôn nô lệ đã mang cà phê từ Ethiopia sang vùng Ả Rập .
Nhưng tới tận giữa thế kỉ thứ 15 người ta mới biết rang hạt cà phê lên và sử dụng nó làm đồ uống. Vùng Ả Rập chính là nơi trồng cà phê độc quyền lúc bấy giờ. Trung tâm giao dịch cà phê là thành phố cảng Mocha, hay còn được gọi là Mokka, tức là thành phố Al Mukha thuộc Yemen ngày nay.
Người Ả Rập khi nhìn thấy được lợi ích cực lớn của cà phê nguyên chất thì họ bắt đầu muốn giữ sự độc quyền của mình. Họ đưa ra những quy định khắt khe trên khắp vùng Ả Rập. Chỉ mang hạt ra khỏi xứ sau khi đã rang chín,người ngoại quốc cũng bị cấm không cho bén mảng đến các đồn điền cà phê. Tuy nhiên với sức hút mãnh liệt của nước cà phê mang lại cho khách hành hương, họ đã tìm mọi cách để đưa hạt giống về trồng. Chẳng bao lâu khắp khu vực Trung Đông đều có hạt giống và truyền đi mỗi lúc một xa hơn.
Cà phê nguyên chất du nhập đến châu Âu như thế nào?
Người Hà Lan là dân tộc đầu tiên ở Châu Âu lấy được hạt giống cây này mang về thử trồng ở đảo Java (khi đó là thuộc địa của họ).
Vào năm 1660 cà phê được người Hà Lan truyền vào Bắc Mỹ ở vùng Amsterdam. Bốn năm sau, người Anh chiếm vùng này và đặt tên là New York. Cà phê trở thành một thức uống quen thuộc chỉ dành cho giới thượng lưu trong khi trà là thức uống phổ thông trong mọi tầng lớp.
Năm 1723, một sĩ quan hải quân Pháp tên De Clieu được về nghỉ phép ở Paris. Ông đã quyết định đem cây này về xứ Martinique nơi anh trú đóng (thuộc địa của Pháp). Sau nhiều lần thất bại, De Clieu cũng trồng được ở một nơi kín đáo với 3 thủy thủ canh gác ngày đêm. Hơn 50 năm sau, Pháp trở thành đối thủ cạnh tranh gay gắt với Hà Lan.
Bất đồng xảy ra không thể giải quyết họ nhờ đến chính quyền Brasil đứng ra dàn xếp. Và đây là khởi đầu cho giống cà phê trồng tại Brasil. Biến các quốc gia Trung, Nam Mỹ trở thành những đế quốc cà phê lớn bậc nhất thế giới.
Mãi đến năm 1773, khi Anh Hoàng George đánh thuế trà và người dân Mỹ nổi lên chống lại thì tình hình thay đổi. Người Mỹ giả dạng dân da đỏ tấn công những tàu chở trà đem đổ xuống biển. Biến cố lịch sử dưới tên Boston Tea Party đã làm cho người Mỹ nghiêng qua uống cà phê. Và chẳng bao lâu thức uống này trở thành quốc phẩm.
Sự du nhập của cây cà phê nguyên chất vào Việt Nam
Lần đầu tiên cà phê nguyên chất được đưa vào Việt Nam vào năm 1875. Giống Arabica được người Pháp mang từ đảo Bourton sang trồng ở phía Bắc. Sau đó lan ra các tỉnh miền Trung như Quảng Trị, Bố Trạch, … Sau thu hoạch chế biến dưới thương hiệu “Arabica du Tonkin”, cà phê được nhập khẩu về Pháp. Sau khi chiếm nước ta thực dân Pháp thành lập các đồn điền cà phê nguyên chất như Chinê, Xuân Mai, Sơn Tây. Chúng canh tác theo phương thức du canh du cư nên năng suất thấp giảm từ 400 – 500 kg/ha. Những năm đầu xuống còn 100 – 150 kg/ha khi càng về sau.
Để tăng sản lượng trở lại, Pháp du nhập vào nước ta hai giống mới là cà phê vối (C. robusta) và cà phê mít ( C. mitcharichia) vào năm 1908 để thay thế. Các đồn điền mới lại mọc lên ở phía Bắc như ở Hà Tĩnh (1910), Yên Mỹ (1911, Thanh Hoá), Nghĩa Đàn (1915, Nghệ An). Thời điểm lớn nhất (1946 – 1966) đạt 13.000 ha. Năm 1925, lần đầu tiên được trồng ở Tây Nguyên. Sau giải phóng diện tích cà phê cả nước khoảng 20.000 ha.
Nhờ sự hỗ trợ vốn từ quốc tế, cây cà phê dần được chú trọng. Đến năm 1980 diện tích đạt 23.000 ha, xuất khẩu trên 6000 tấn. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam. Có khoảng 180 nghìn ha với sản lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002).
Phát triển vượt bậc của ngành cà phê Việt Nam
Trận sương muối năm 1994 ở Brasil đã phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nguyên chất ở nước này. Cùng với đợt hạn hán kéo dài năm 1997 đã làm nguồn cung trên toàn thế giới sụp giảm mạnh. Giá tăng đột biến đã khích lệ mở rộng diện tích cà phê nguyên chất ở Việt Nam.
Thấy vậy, Việt Nam đầu tư kỹ thuật canh tác thâm canh, chuyên canh, … nhờ đó diện tích và sản lượng tăng nhanh. Trung bình 23,9%/năm, đưa tổng diện tích cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha. Chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của Việt Nam. Đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm.
Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha, tổng sản lượng đạt 800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích của Việt Nam năm 2000 đã tăng gấp 23 lần. Và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế hoạch trước đó. Hơn suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế.
Cho đến nay sản lượng cả nước chiếm 8% sản lượng nông nghiệp, chiếm 25% giá trị xuất khẩu và là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn nhất thế giới với hai tỉnh có diện tích canh tác lớn nhất là ĐăkLăc và Gia Lai. Góp phần mang lại việc làm ổn định, thu nhập cao cho hàng triệu người. Góp phần ổn định kinh tế xã hội ở những vùng xa xôi hẻo lánh, dân tộc ít người, …